ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 92 NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (03/02/1930 - 03/02/2022)
ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN
KỶ NIỆM 92 NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM
(03/02/1930 - 03/02/2022)
-----
I. ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI LÀ BƯỚC NGOẶT TO LỚN TRONG LỊCH SỬ CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1.
Bối cảnh lịch sử ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam
Từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, tình hình thế giới và
trong nước có nhiều chuyển biến sâu sắc. Trên thế giới, chủ nghĩa tư bản chuyển
từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc. Các nước tư bản đế quốc gia
tăng các hoạt động xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Mâu thuẫn
giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Bên trong
các nước tư bản thì tăng cường bóc lột nhân dân lao động, phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Năm 1917, với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, chủ
nghĩa Mác -Lênin từ
lý luận đã trở thành hiện thực, trở thành nguồn cổ vũ to lớn cho các dân tộc bị
áp bức đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người.
Tháng
3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) ra đời đã thúc đẩy sự phát triển
mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Trong nước, năm 1858, thực dân Pháp xâm lược và thi hành
chính sách cai trị thực dân ở Việt Nam, biến nước ta từ một quốc gia phong kiến
độc lập thành “một xứ thuộc địa, dân ta
là vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”.
Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có nhiều thay
đổi.
Thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để thực hiện
chính sách bóc lột tàn bạo, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; ra sức vơ vét
tài nguyên, cùng nhiều hình thức thuế khóa nặng nề và tiến hành chính sách ngu
dân. Các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội
Việt Nam đều mang thân phận người dân mất nước và đều bị thực dân áp bức, bóc
lột, chèn ép nên đều căm phẫn thực dân Pháp.
Do đó, xã hội Việt Nam có hai mâu thuẫn cơ bản chính là: Một là, mâu thuẫn toàn thể dân tộc Việt
Nam với thực dân Pháp xâm lược và bọn tay sai; Hai là, mâu thuẫn giữa Nhân dân Việt Nam chủ yếu là giai cấp nông
dân với địa chủ phong kiến. Hai mâu thuẫn đó gắn chặt với nhau. Trong đó mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và bọn tai sai là mâu
thuẫn chủ yếu. Mâu thuẫn đó ngày càng trở nên sâu sắc và gay gắt.
Trước
sự xâm lược của thực dân Pháp, các cuộc khởi nghĩa và các phong trào đấu tranh
của nhân dân ta diễn ra liên tục và mạnh mẽ như phong trào Cần Vương, khởi
nghĩa Yên Bái, phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản của Phan
Bội Châu, Phan Châu Trinh… nhưng đều bị thất bại. Xã hội Việt Nam rơi vào khủng
hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
2.
Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước và chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
- Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu
nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì
ngày 5/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí
Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới.
- Trải qua quá trình bôn ba đến nhiều nước, Nguyễn
Ái Quốc đã nghiên cứu nhiều cuộc cách mạng, nghiên cứu nhiều lý thuyết cách
mạng trên thế giới để tìm đường cứu nước cho nhân dân ta, dân tộc ta. Đến tháng
7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc bản “Sơ
thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa”
của Lênin đăng trên báo Nhân đạo và cũng chính từ đây đã giải đáp cho Người con
đường đấu tranh giành độc lập tự do thực sự cho dân tộc, cho đồng bào mình,
Người khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất chính là chủ nghĩa LêNin”.
-
Tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp với
tư cách đại biểu Đông Dương, đã bỏ phiếu tán thành thành lập Đảng Cộng sản Pháp
và trở thành người Cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
-
Từ năm 1921-1930, Nguyễn Ái Quốc vừa tiếp tục hoạt động trong Đảng Cộng sản
Pháp, nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện tư tưởng cứu nước, vừa tích cực truyền
bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam. Người tập trung chuẩn bị về tổ chức và cán bộ, lập ra Hội Việt Nam cách
mạng Thanh niên (1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu, Trung
Quốc, đồng thời gửi cán bộ đi học tại trường Đại học Phương Đông (Liên Xô) và
trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc).
Như
vậy, từ bối cảnh quốc tế, trong nước; việc tìm ra con đường cứu nước cho nhân
dân ta, dân tộc ta, tìm ra lý luận cách mạng Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc và
công tác chuẩn bị về tổ chức, cán bộ mà từ cuối năm 1929, đầu năm 1930, những
điều kiện cho sự ra đời của một Đảng vô sản ở Việt Nam đã chín muồi.
3.
Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
- Đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, từ tháng 6/1929 đến tháng 1/1930 ở Việt Nam lần lượt xuất hiện 3 tổ
chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản Đảng,
An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng
sản Liên Đoàn. Tuy nhiên, ở
một nước có tới ba tổ chức cộng sản nên không tránh khỏi sự phân tán về lực
lượng và tổ chức, khó thống nhất về tư tưởng và hành động. Yêu cầu thực tiễn
cách mạng Việt Nam cần phải thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất để lãnh đạo
cách mạng Việt Nam.
-
Từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp ở bán đảo Cửu Long thuộc Hồng Kông (Trung Quốc)
dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị đã nhất trí thống nhất
các tổ chức cộng sản thành lập một đảng, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội
nghị đã thông qua các văn kiện gồm: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn
Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến công nhân,
nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp bức, bóc lột
nhân dịp thành lập Đảng. Trong đó, Chánh cương vắn tắt của Đảng và sách lược
vắn tắt của Đảng phản ánh nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng
sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như Đại hội
thành lập Đảng.
- Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng
(9/1960) đã quyết nghị lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tóm lại, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là
thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và
phong trào yêu nước Việt Nam. Đó
là kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào cách mạng trong
cả nước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sự đoàn
kết nhất trí của những chiến sỹ tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân
tộc.
4.
Ý nghĩa lịch sử sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan
trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc,
chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu
nước Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với
Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra thời kì mới cho cách mạng Việt Nam - thời
kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu
tiên của Đảng ra đời, đã xác định được những nội dung cơ bản nhất của con đường
cách mạng Việt Nam; đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của lịch sử và trở
thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất các tổ chức cộng sản, các lực lượng
cách mạng và toàn thể dân tộc.
Thực
tiễn cách mạng Việt Nam và qua 92 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng Cộng
sản Việt Nam đã khẳng định: sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu
quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam đội
tiên phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, toàn dân tộc Việt Nam,
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho hành động
đã lãnh đạo nhân dân ta, dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
II.
NHỮNG MỐC SON CHÓI LỌI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRÊN CHẶNG ĐƯỜNG 92 NĂM VINH
QUANG CỦA ĐẢNG
-
Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945): Sau khi ra đời, Đảng đã lãnh
đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền với 3 cao trào cách mạng
có ý nghĩa to lớn đưa đến thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Đó
là: Cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là phong trào Xô viết - Nghệ Tĩnh; Cao trào
cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939); Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc
(1939 - 1945).
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám
năm 1945 đã phá tan sự thống trị của thực dân gần một trăm năm và lật đổ chế độ
phong kiến đè nặng lên nhân dân ta mấy mươi thế kỉ, mở ra bước ngoặt vĩ đại của
cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành
người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình
lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên
ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Về
ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định:
“Chẳng những giai cấp lao động và Nhân
dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức
nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng
của các dân tộc thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành
công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.
-
Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước (1945 - 1975)
Xây dựng và bảo vệ chính
quyền cách mạng, toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ
(1945-1954)
-
Trong những năm 1945 - 1946, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo
xây dựng và củng cố vững chắc chính quyền nhân dân, bầu cử Quốc hội nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa (6/1/1946); xây dựng và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu
tiên (9/11/1946); chăm lo xây dựng chế độ mới, đời sống mới của nhân dân, chống
giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp ở
Nam Bộ và Nam Trung Bộ với sự ủng hộ và chi viện của cả nước; kiên quyết trấn
áp các thế lực phản cách mạng, bảo vệ chính quyền và thành quả Cách mạng tháng
Tám; đồng thời thực hành sách lược khôn khéo, đưa cách mạng vượt qua những thử
thách hiểm nghèo. Đảng đã chủ động chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đối
phó với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp trên phạm vi cả nước.
- Tháng 12/1946, trước dã tâm
xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
phát động toàn quốc kháng chiến với quyết tâm “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không
chịu làm nô lệ”. Bằng đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài,
dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn
bè quốc tế, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến
tranh của thực dân Pháp giành thắng lợi mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện
Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động
địa cầu”, buộc Chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Giơnevơ chấm dứt sự
thống trị của thực dân Pháp ở nước ta.
- Kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954 - 1975)
-
Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Đảng lãnh
đạo nhân dân ta bắt tay vào khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng, khôi phục
kinh tế - văn hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
-
Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân nêu cao quyết tâm đánh Mỹ, thực hiện đường lối
chiến tranh nhân dân bằng tầm cao khoa học và nghệ thuật. Bằng đường lối lãnh
đạo đúng đắn, sáng suốt và tinh thần yêu nước, đấu tranh anh dũng kiên cường,
bất khuất của nhân dân ta, cùng với sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ
nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, Đảng đã lãnh đạo nhân dân
ta lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ, giành
nhiều thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc
30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống
nhất Tổ quốc.
-
Thời kỳ tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước, thực hiện công cuộc
đổi mới đất nước từ năm 1975 đến nay
-
Sau chiến tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đất nước ta gặp muôn
vàn khó khăn, Đảng đã lãnh đạo nhân dân vừa ra sức khôi phục kinh tế vừa tiến
hành hai cuộc chiến tranh chống xâm lược biên giới phía Bắc và Tây Nam, bảo vệ
độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; đồng thời tập trung lãnh đạo xây
dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế
mới trong cả nước, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ta.
- Qua hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và
lãnh đạo, với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đất nước ta đã đạt
được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta vượt qua khủng
hoảng kinh tế đã trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình; đang đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng
khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành,
phát triển. Văn hóa - xã hội có bước phát triển, công tác xóa đói giảm nghèo đạt
được những thành tựu quan trọng, sớm đạt được nhiều chỉ tiêu phát triển thiên
niên kỷ của Liên hợp quốc, được quốc tế đánh giá cao. Diện mạo đất nước và đời
sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an
ninh được tăng cường. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên. Tổng kết nhiệm kỳ
khóa XII và nhìn lại 35 năm đổi mới, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định toàn Đảng, toàn dân đã
đạt được những thành tựu quan trọng đó là “Đất nước
ta chưa bao giờ có được tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
- Những bài học kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam
Thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam trong suốt 92 năm qua, Đảng ta đã tích luỹ
và đúc rút được nhiều bài học kinh nghiệm lớn:
Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao
lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên
quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững
chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Hai là, sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì
Nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ
hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân
dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với Nhân dân. Quan liêu, tham
nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh
của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.
Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: Đoàn kết
toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền
thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành
công, đại thành công.
Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn
cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ, nêu cao tinh thần hợp tác
quốc tế, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố
truyền thống với yếu tố hiện đại.
Năm là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là
nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng không
có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng phải
nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực
tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ
thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn:
sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán bộ,
đảng viên.
III. PHÁT
HUY TRUYỀN THỐNG VẺ VANG, TÍCH CỰC XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH VỮNG MẠNH, ĐẤT NƯỚC
NGÀY CÀNG GIÀU ĐẸP.
1. Những
truyền thống vẻ vang của ĐCS Việt Nam
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta xây dựng nên
nhiều truyền thống quý báu, thể hiện bản chất tốt đẹp.
Đó là truyền thống trung thành vô hạn với lợi ích dân tộc
và giai cấp, kiên định mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội
trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng HCM. Chỉ có đi theo con đường cách
mạng mà Đảng ta và Bác Hồ đã lựa chọn thì cách mạng Việt nam mới giành được thắng
lợi trọn vẹn, đất nước ta mới thực sự được độc lập; dân tộc ta mới thật sự được
tự do; nhân dân ta mới có cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Đó là truyền thống giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối;
nắm vững vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê nin, tham khảo kinh
nghiệm của quốc tế để đề ra đường lối đúng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các
nhiệm vụ cách mạng. Trong mỗi giai đoạn, Đảng ta luôn thấm nhuần quan điểm chân
lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam để xác định
phương hướng nhiệm vụ phương pháp của cách mạng Việt Nam.
Đó là truyền thống gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân,
luôn lấy việc phục vụ nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu. Nhân dân ta đã
nuôi dưỡng và bảo vệ Đảng từ những ngày còn trứng nước, hết lòng tin yêu Đảng, ủng
hộ và ra sức phấn đấu thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Sức mạnh vô tận
của nhân dân làm nên sức mạnh vô địch của Đảng; nguồn gốc sức mạnh của Đảng là ở
sự gắn bó máu thịt với nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn
dân.
Đó là truyền thống đoàn kết thống nhất, có tổ chức và kỷ
luật chặt chẽ trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ tự phê bình, phê bình và
tình thương yêu đồng chí. Trải qua những thử thách khắc nghiệt trong nhà tù đé
quốc, trước lưỡi lê, họng súng của kẻ thù hay trên chiến trường lửa đạn, những
người công sản Việt Nam đã nêu những tấm gương sáng ngời về tinh thần đoàn kết
gắn bó thương yêu nhau; về tình đồng chí đồng đội. Chính tình nghĩa Cộng sản đó
đã gắn kết những người cách mạng Việt Nam thành một đội tiên phong gang thép được
nhân dân tin yêu, bạn bè ngưỡng mộ, kẻ thù khiếp sợ; tạo thành sức mạnh để Đảng
ta vượt qua mọi thử thách hy sinh, giữ vững niềm tin và giương cao ngọn cờ lãnh
đạo.
Đó là truyền thống đoàn kết quốc tế thủy chung trong sáng
dựa trên những nguyên tắc và mục tiêu cao cả. Đây là cơ sở vững chắc để Đảng ta
hình thành và thực hiện thành công đường lối đối ngoại đúng đắn qua các thời kỳ,
phát huy đến đỉnh cao sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đưa
cách mạng Việt Nam liên tục phát triển.
Những truyền thống quý báu của Đảng ta là sự kế thừa và
phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của giai cấp công nhân Việt Nam và
giai cấp công nhân quốc tế trên một tầm cao mới của thời đại; là sức mạnh đảm bảo
vai trò lãnh đạo của Đảng; là kết quả của quá trình vun trồng xây đắp bền bỉ là
sự hy sinh xương máu phấn đấu không mệt mỏi của các thế hệ cán bộ Đảng viên.
Những truyền thống ấy của Đảng có ý nghĩa dân tộc và ý
nghĩa quốc tế sâu sắc, thể hiện tinh thần cách mạng triệt để. Ngay từ khi mới
ra đời, đảng ta đã nắm bắt đúng xu thế phát triển của thời đại, gắn phong trào
cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới, giải quyết đúng đắn vấn đề
độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Trên con đường phát triển của cách mạng Việt
Nam. Đảng ta đã không ngừng đưa ra những quyết sách phù hợp, đáp ứng yêu cầu lịch
sử, vượt qua mọi khó khăn, thử thách đưa nước nhà đi từ thắng lợi này đến thắng
lợi khác.
2. Tích cực xây dựng
Đảng ta trong sạch vững mạnh về chính trị tư tưởng tổ chức và đạo đức xây dựng
đất nước ngày càng giàu đẹp văn minh.
Những thắng lợi vĩ đại trong 92 năm qua kể từ ngày
có Đảng lãnh đạo là minh chứng sinh động nhất về năng lực lãnh đạo đúng đắn,
sáng tạo của Đảng và sức mạnh to lớn của nhân dân ta. Đảng ta không ngừng tự đổi
mới, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trướng bối cảnh thế giới có nhiều diễn
biến phức tạp. Đảng ta đã dành không ít thời gian và công sức cho công tác xây
dựng Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, được đặt ra trong nhiều Nghị
quyết, Chỉ thị của Đảng. Sau thời gian triển khai thực hiện, công tác xây dựng
Đảng đã đạt được những chuyển biến tích cực và kinh nghiệm quan trọng. Bản lĩnh
chính trị, trình độ năng lực lãnh đạo của Đảng ngày càng được nâng lên; Đảng
luôn vững vàng trước mọi khó khăn thách thức trong bối cảnh trong nước khu vực
và trên thế giới có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường và có những
quyết sách phù hợp để chỉ đạo xử lý kịp thời hiệu quả.
Hòa chung dòng lịch sử hào hùng của cả nước, Chi bộ Đảng xã Nghĩa
Hòa (nay là thị trấn Quỹ Nhất) được
thành lập ngày 1/10/1956, từ khi có Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên hoạt động, trở
thành hạt nhân lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân trong xã,
hòa vào phong trào đấu tranh cách mạng của cả nước, đã lãnh đạo dân quân du
kích, nhân dân trong xã vùng lên tấn công đánh đuổi thực dân Pháp và đánh đổ chế
độ Mỹ - Ngụy, giải phóng xã nhà góp phần cùng cả nước bảo vệ vững chắc nền độc
lập dân tộc, chủ quyền, thông nhất và toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc.
Trải qua 92 năm tiến hành sự nghiệp cách mạng vĩ đại dưới
sự lãnh đạo của Đảng, Đảng bộ và nhân dân thị trấn Quỹ Nhất luôn trung thành với
mục tiêu của Đảng là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, góp phần hoàn thành
cách mạng giải phóng dân tộc, đã và đang không ngừng nỗ lực vượt qua khó khăn,
thách thức thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công cuộc
đổi mới, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhìn lại năm 2021 thị trấn Quỹ Nhất triển khai nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh có những thuận lợi, khó khăn, thách
thức đan xen; nhưng với tinh thần vượt khó và quyết tâm cao của cả hệ thống
chính trị và nhân trong thị trấn đã thực hiện đạt được kết quả tích cực trên một
số lĩnh vực: các chỉ tiêu đạt kế hoạch đề ra, một số chỉ tiêu đạt khá. Tốc độ
tăng trưởng đạt 8%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng
công nghiệp, thương mại, dịch vụ. Sản xuất nông nghiệp tăng trưởng khá, là chỗ
dựa của nền kinh tế trong bối cảnh tác động của dịch Covid-19 và giúp ổn định đời
sống nhân dân. Thu ngân sách nhà nước đạt kế hoạch; chi ngân sách đảm bảo chặt
chẽ, cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của địa phương, nhất là công tác phòng chống
dịch Covid-19. Chương trình xây dựng nông thôn mới nâng cao được quan tâm chỉ đạo
tích cực: UBND thị trấn là 1 trong 6 xã đầu tiên của huyện nghĩa hưng được UBND
tỉnh Nam định công nhận đạt chuẩn NTM nâng cao năm 2020. Công tác quản lý, sử dụng
đất đai có chuyển biến tích cực. Công tác đảm bảo an sinh xã hội được quan tâm
thực hiện tốt; đời sống nhân dân được duy trì ổn định. Công tác phòng chống dịch bệnh covid-19 được tập trung chỉ đạo quyết liệt,
chủ động kịp thời, với các giải pháp hiệu quả, cơ bản kiểm soát được dịch bệnh
trong giai đoạn đầu và thực hiện thích ứng an toàn linh hoạt đạt kết quả. Công
tác chi hỗ trợ cho người dân bị ảnh hưởng dịch covid-19 đảm bảo kịp thời, đúng
quy định. Quốc phòng an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo;
công tác thực hành tiết kiệm chống tham nhũng lãng phí được tăng cường. Công
tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị được tập trung chỉ đạo với tinh thần đổi
mới chủ động sâu sát quyết liệt hơn; đặc biệt đã tổ chức thành công cuộc bầu cử
đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026. Hoạt động
của MTTQ tổ quốc, các đoàn thể chính trị xã hội, hội xã hội có đổi mới và đạt kết
quả tích cực, đã tạo được sự đồng thuận của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là
trong công tác phòng chống dịch bệnh Covid-19, công tác giải phóng mặt bằng các
công trình dự án đang thi công trên địa bàn và phát triển kinh tế - xã hội, góp
phần quan trọng thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ trọng tâm năm 2021.
Kỷ niệm 92 năm Ngày thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam,
toàn Đảng bộ và nhân dân thị trấn Quỹ Nhất vô cùng tự hào vì đất nước có một Đảng
Cộng Sản kiên cường, trung thành với chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, lãnh đạo nhân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, làm nên những kỳ
tích vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đóng góp xứng đáng vào phong trào Cộng sản
và công nhân quốc tế, vì hòa bình tiến bộ của nhân loại. Tự hào về Đảng quang
vinh, về Chủ Tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, mỗi Cán bộ, Đảng viên và mỗi người dân
càng thấy rõ hơn trách nhiệm của mình, nguyện đi theo Đảng, xây dựng Đảng ngày
càng trong sạch, vững mạnh, tiếp tục lãnh đạo nhân dân ta đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, thực hiện thắng lợi
mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh, xây dựng một nước
Việt nam phồn vinh hòa bình và thịnh vượng.
BAN TUYÊN GIÁO ĐẢNG ỦY THỊ TRẤN QUỸ
NHẤT