ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 93 NĂM NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM (03/02/1930 – 03/02-2023)
I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI LÀ BƯỚC NGOẶT TO LỚN
TRONG LỊCH SỬ CÁCH MẠNG VIỆT NAM
1.
Bối cảnh lịch sử ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam
Từ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, tình hình thế giới và
trong nước có nhiều chuyển biến sâu sắc. Trên thế giới, chủ nghĩa tư bản chuyển
từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc. Các nước tư bản đế quốc
gia tăng các hoạt động xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Mâu
thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Bên
trong các nước tư bản thì tăng cường bóc lột nhân dân lao động, phong trào đấu
tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Năm 1917, với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, chủ
nghĩa Mác - Lênin từ
lý luận đã trở thành hiện thực, trở thành nguồn cổ vũ to lớn cho các dân tộc bị
áp bức đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
con người.
Tháng
3 năm 1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế 3) ra đời đã thúc đẩy sự phát triển mạnh
mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Trong nước, năm 1858, thực dân Pháp xâm lược và thi hành
chính sách cai trị thực dân ở Việt Nam, biến nước ta từ một quốc gia phong kiến
độc lập thành “một xứ thuộc địa, dân ta
là vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”.
Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có nhiều thay
đổi.
Thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để thực hiện
chính sách bóc lột tàn bạo, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; ra sức vơ vét
tài nguyên, cùng nhiều hình thức thuế khóa nặng nề và tiến hành chính sách ngu
dân. Các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội
Việt Nam đều mang thân phận người dân mất nước và đều bị thực dân áp bức, bóc
lột, chèn ép nên đều căm phẫn thực dân Pháp.
Do đó, xã hội Việt Nam có hai mâu thuẫn cơ bản chính là: Một là, mâu thuẫn toàn thể dân tộc Việt
Nam với thực dân Pháp xâm lược và bọn tay sai; Hai là, mâu thuẫn giữa Nhân dân Việt Nam chủ yếu là giai cấp nông
dân với địa chủ phong kiến. Hai mâu thuẫn đó gắn chặt với nhau. Trong đó mâu
thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và bọn tai sai là mâu
thuẫn chủ yếu. Mâu thuẫn đó ngày càng trở nên sâu sắc và gay gắt.
Trước
sự xâm lược của thực dân Pháp, các cuộc khởi nghĩa và các phong trào đấu tranh
của nhân dân ta diễn ra liên tục và mạnh mẽ như phong trào Cần Vương, khởi
nghĩa Yên Bái, phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản của Phan
Bội Châu, Phan Châu Trinh… nhưng đều bị thất bại. Xã hội Việt Nam rơi vào khủng
hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
2.
Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước và chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
- Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu
nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì
ngày 5/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí
Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới.
- Trải qua quá trình bôn ba đến nhiều nước, Nguyễn
Ái Quốc đã nghiên cứu nhiều cuộc cách mạng, nghiên cứu nhiều lý thuyết cách
mạng trên thế giới để tìm đường cứu nước cho nhân dân ta, dân tộc ta. Đến tháng
7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc bản “Sơ
thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa”
của Lênin đăng trên báo Nhân đạo và cũng chính từ đây đã giải đáp cho Người con
đường đấu tranh giành độc lập tự do thực sự cho dân tộc, cho đồng bào mình,
Người khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất chính là chủ nghĩa LêNin”.
-
Tháng 12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp với
tư cách đại biểu Đông Dương, đã bỏ phiếu tán thành thành lập Đảng Cộng sản Pháp
và trở thành người Cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam.
-
Từ năm 1921-1930, Nguyễn Ái Quốc vừa tiếp tục hoạt động trong Đảng Cộng sản
Pháp, nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện tư tưởng cứu nước, vừa tích cực truyền
bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam. Người tập trung chuẩn bị về tổ chức và cán bộ, lập ra Hội Việt Nam cách
mạng Thanh niên (1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu, Trung
Quốc, đồng thời gửi cán bộ đi học tại trường Đại học Phương Đông (Liên Xô) và
trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc).
Như
vậy, từ bối cảnh quốc tế, trong nước; việc tìm ra con đường cứu nước cho nhân
dân ta, dân tộc ta, tìm ra lý luận cách mạng Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc và
công tác chuẩn bị về tổ chức, cán bộ mà từ cuối năm 1929, đầu năm 1930, những
điều kiện cho sự ra đời của một Đảng vô sản ở Việt Nam đã chín muồi.
3.
Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
- Đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, từ tháng 6/1929 đến tháng 1/1930 ở Việt Nam lần lượt xuất hiện 3 tổ
chức cộng sản là Đông Dương Cộng sản
Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông
Dương Cộng sản Liên Đoàn. Tuy
nhiên, ở một nước có tới ba tổ chức cộng sản nên không tránh khỏi sự phân tán
về lực lượng và tổ chức, khó thống nhất về tư tưởng và hành động. Yêu cầu thực
tiễn cách mạng Việt Nam cần phải thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất để lãnh
đạo cách mạng Việt Nam.
-
Từ ngày 6/1 đến ngày 7/2/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp ở bán đảo Cửu Long thuộc Hồng Kông (Trung Quốc)
dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị đã nhất trí thống nhất
các tổ chức cộng sản thành lập một đảng, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội
nghị đã thông qua các văn kiện gồm: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi của đồng chí
Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến công
nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp bức,
bóc lột nhân dịp thành lập Đảng. Trong đó, Chánh cương vắn tắt của Đảng và sách
lược vắn tắt của Đảng phản ánh nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như Đại
hội thành lập Đảng.
- Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng
(9/1960) đã quyết nghị lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
4.
Ý nghĩa lịch sử sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan
trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc,
chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu
nước Việt Nam đầu thế kỷ 20.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với
Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra thời kì mới cho cách mạng Việt Nam - thời
kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu
tiên của Đảng ra đời, đã xác định được những nội dung cơ bản nhất của con đường
cách mạng Việt Nam; đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của lịch sử và trở
thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất các tổ chức cộng sản, các lực lượng
cách mạng và toàn thể dân tộc.
Thực
tiễn cách mạng Việt Nam và qua 93 năm lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã khẳng định: sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định
mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam đội tiên phong của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động, toàn dân tộc Việt Nam, lấy chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho hành động đã lãnh đạo nhân
dân ta, dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
II.
NHỮNG MỐC SON CHÓI LỌI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRÊN CHẶNG ĐƯỜNG 93 NĂM VINH
QUANG CỦA ĐẢNG
1.
Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945): Sau khi ra đời, Đảng đã lãnh
đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền với 3 cao trào cách mạng
có ý nghĩa to lớn đưa đến thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945. Đó
là: Cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là phong trào Xô viết - Nghệ Tĩnh; Cao trào
cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939); Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc
(1939 - 1945).
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám
năm 1945 đã phá tan sự thống trị của thực dân gần một trăm năm và lật đổ chế độ
phong kiến đè nặng lên nhân dân ta mấy mươi thế kỉ, mở ra bước ngoặt vĩ đại của
cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành
người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Ngày 2/9/1945, tại quảng trường Ba Đình
lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên
ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nay là nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á.
Về ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng
định: “Chẳng những giai cấp lao động và
Nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp
bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử
cách mạng của các dân tộc thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng
thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.
2.
Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước (1945 - 1975)
2.1. Xây dựng và bảo vệ chính
quyền cách mạng, toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ
(1945-1954)
-
Trong những năm 1945 - 1946, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo
xây dựng và củng cố vững chắc chính quyền nhân dân, bầu cử Quốc hội nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa (6/1/1946); xây dựng và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu
tiên (9/11/1946); chăm lo xây dựng chế độ mới, đời sống mới của nhân dân, chống
giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp ở
Nam Bộ và Nam Trung Bộ với sự ủng hộ và chi viện của cả nước; kiên quyết trấn
áp các thế lực phản cách mạng, bảo vệ chính quyền và thành quả Cách mạng tháng
Tám; đồng thời thực hành sách lược khôn khéo, đưa cách mạng vượt qua những thử
thách hiểm nghèo. Đảng đã chủ động chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đối
phó với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp trên phạm vi cả nước.
- Tháng 12/1946, trước dã tâm
xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
phát động toàn quốc kháng chiến với quyết tâm “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không
chịu làm nô lệ”. Bằng đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài,
dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn
bè quốc tế, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến
tranh của thực dân Pháp giành thắng lợi mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện
Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động
địa cầu”, buộc Chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Giơnevơ chấm dứt sự
thống trị của thực dân Pháp ở nước ta.
2.2. Kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954 - 1975)
-
Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, Đảng lãnh
đạo nhân dân ta bắt tay vào khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng, khôi phục
kinh tế - văn hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
-
Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân nêu cao quyết tâm đánh Mỹ, thực hiện đường lối
chiến tranh nhân dân bằng tầm cao khoa học và nghệ thuật. Bằng đường lối lãnh
đạo đúng đắn, sáng suốt và tinh thần yêu nước, đấu tranh anh dũng kiên cường,
bất khuất của nhân dân ta, cùng với sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ
nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, Đảng đã lãnh đạo nhân dân
ta lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ, giành
nhiều thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc
30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống
nhất Tổ quốc.
3.
Thời kỳ tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước, thực hiện công cuộc
đổi mới đất nước từ năm 1975 đến nay
3.1. Từ năm 1975 đến năm 1986
- Sau chiến tranh giải phóng miền
Nam, thống nhất Tổ quốc, đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn, Đảng đã lãnh đạo
Nhân dân vừa ra sức khôi phục kinh tế vừa tiến hành hai cuộc chiến tranh chống
xâm lược biên giới phía Bắc và Tây Nam, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh
thổ quốc gia; đồng thời tập trung lãnh đạo xây dựng cơ sở vật chất của chủ
nghĩa xã hội, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước, cải thiện
đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân lao động.
- Trước những thách thức của thời kỳ
mới, Đảng ta đã tổng kết thực tiễn, tìm tòi, hoạch định đường lối đổi mới, ban
hành Nghị quyết số 21 ngày 20/9/1979 của Hội nghị Trung ương 6 (khóa 4) về
“Phương hướng nhiệm vụ phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp địa
phương"; Chỉ thị 100 ngày 13/01/1981 của Ban Bí thư về “Cải tiến công tác
khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác
xã nông nghiệp”;
3.2. Từ năm 1986 đến nay
- Trên cơ sở đánh giá tình hình đất
nước và qua quá trình tìm tòi, khảo nghiệm, Đại hội 6 của Đảng (tháng 12/1986)
đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, mở ra bước ngoặt quan trọng
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
- Trước bối cảnh mô hình chủ nghĩa
xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tạm thời
lâm vào thoái trào, Đại hội 7 của Đảng (tháng 6/1991) khẳng định tiếp tục đổi
mới đồng bộ, triệt để trên các lĩnh vực với những bước đi, cách làm phù hợp và
giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Các nghị quyết của Đảng từ Đại hội
8 đến nay tiếp tục khẳng định sự kiên định, kiên trì thực hiện đường lối đổi
mới đất nước và hội nhập quốc tế.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng các
khóa đã ban hành nhiều nghị quyết về những vấn đề quan trọng trong công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là Nghị quyết Trung 4 khóa 12, 13 với quan điểm nhìn
thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá giá đúng sự thật, gắn chặt phòng
với chủ động tiến công để xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh, qua đó tạo sự
chuyển biến tích cực trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao niềm tin
của cán bộ, đảng viên và Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Quốc hội
không ngừng bổ sung, hoàn thiện, thể chế hóa Hiến pháp, hệ thống pháp luật, tạo
cơ sở pháp lý ngày càng đồng bộ, phù hợp cho quá trình đổi mới. Chính phủ cụ
thể hóa thành các cơ chế, chính sách và giải pháp quản lý, quản trị phát triển
đất nước, bảo vệ Tổ quốc.
Qua hơn 30 năm thực hiện Cương lĩnh
1991 và hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo,
với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đất nước ta đã đạt được những
thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Diện mạo đất nước và đời sống của Nhân
dân có nhiều thay đổi, ngày càng được nâng cao. Chính trị - xã hội ổn định;
quốc phòng, an ninh được tăng cường. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng
lên. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết
toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ
thống chính trị được đẩy mạnh. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã và đang đạt được nhiều
kết quả tích cực. Cán bộ, đảng viên và Nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng,
Nhà nước, vào công cuộc đổi mới và triển vọng phát triển của đất nước.
- Những thành tựu hơn 35 năm thực
hiện đường lối đổi mới đất nước đã tạo đà cho sự phát triển trong những năm
tiếp theo; đồng thời cũng là minh chứng sinh động khẳng định vai trò lãnh đạo
đúng đắn, sáng suốt của Đảng ta.
4.
Những bài học kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam
Thực tiễn phong phú của cách mạng
Việt Nam trong suốt 93 năm qua, Đảng ta đã tích lũy và đúc rút được nhiều bài
học kinh nghiệm lớn:
Một
là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội -
ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và
các thế hệ mai sau. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân
tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm
vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Hai
là, sự nghiệp cách mạng là của Nhân dân, do Nhân dân và vì
Nhân dân. Chính Nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt
động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân.
Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với Nhân dân. Quan liêu, tham nhũng,
xa rời Nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước,
của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.
Ba
là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: Đoàn kết toàn
Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống
quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại
thành công.
Bốn
là, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh
trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định
ý chí độc lập, tự chủ, nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội
lực, đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện
đại.
Năm
là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết
định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài
việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo,
góp phần phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng
làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất dạo dức và năng lực tổ
chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường
lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách
quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan
liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên.
III. PHÁT
HUY TRUYỀN THỐNG VẺ VANG, TÍCH CỰC XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH VỮNG MẠNH, ĐẤT NƯỚC
NGÀY CÀNG GIÀU ĐẸP.
1.
Những truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng,
Đảng ta xây dựng nên nhiều truyền thống quý báu, thể hiện bản chất tốt đẹp.
Đó là truyền thống trung thành vô
hạn với lợi ích của dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh. Chỉ có đi theo con dường cách mạng mà Đảng ta và Bác Hồ đã
lựa chọn thì cách mạng Việt Nam mới giành được thắng lợi trọn vẹn, đất nước ta
mới thật sự được độc lập; dân tộc ta mới thật sự được tự do; Nhân dân ta mới có
cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc.
Đó là truyền thống giữ vững độc lập,
tự chủ về đường lối; nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa
Mác-Lênin, tham khảo kinh nghiệm của quốc tế để đề ra đường lối đúng và tổ chức
thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ cách mạng. Trong mỗi giai đoạn, Đảng ta luôn
thấm nhuần quan điểm chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo, xuất phát từ
thực tiễn Việt Nam để xác định phương hướng, nhiệm vụ, phương pháp của cách
mạng Việt Nam.
Đó là truyền thống gắn bó máu thịt
giữa Đảng và Nhân dân, luôn luôn lấy việc phục vụ Nhân dân làm lẽ sống và mục
tiêu phấn đấu. Nhân dân ta đã nuôi dưỡng và bảo vệ Đảng từ những ngày còn trứng
nước, hết lòng tin yêu Đảng, ủng hộ và ra sức phấn đấu thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng. Sức mạnh vô tận của Nhân dân làm nên sức mạnh vô địch của
Đảng; nguồn gốc sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó máu thịt với Nhân dân, phát
huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân.
Đó là truyền thống đoàn kết thống
nhất, có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ,
tự phê bình, phê bình và tình thương yêu đồng chí. Trải qua những thử thách
khắc nghiệt trong nhà tù đế quốc, trước lưỡi lê, họng súng của kẻ thù hay trên
chiến trường lửa đạn, những người cộng sản Việt Nam đã nêu những tấm gương sáng
ngời về tinh thần đoàn kết gắn bó, thương yêu nhau; về tình đồng chí, đồng đội.
Chính tình nghĩa cộng sản đó đã gắn kết những người cách mạng Việt Nam thành
một đội tiên phong gang thép được Nhân dân tin yêu, bạn bè ngưỡng mộ, kẻ thù
khiếp sợ; tạo thành sức mạnh để Đảng ta vượt qua mọi thử thách, hy sinh, giữ
vững niềm tin và giương cao ngọn cờ lãnh đạo.
Đó là truyền thống đoàn kết quốc tế
thủy chung, trong sáng dựa trên những nguyên tắc và mục tiêu cao cả. Đây là cơ
sở vững chắc để Đảng ta hình thành và thực hiện thành công đường lối đối ngoại
đúng đắn qua các thời kỳ, phát huy đến đỉnh cao sự kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại, đưa cách mạng Việt Nam liên tục phát triển.
Những truyền thống quý báu của Đảng ta là sự
kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của giai cấp công nhân
Việt Nam và giai cấp công nhân quốc tế trên một tầm cao mới của thời đại; là
sức mạnh bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng; là kết quả của quá trình vun trồng,
xây đắp bền bỉ, là sự hy sinh xương máu, phấn đấu không mệt mỏi của các thế hệ
cán bộ, đảng viên.
Những truyền thống ấy của Đảng có ý
nghĩa dân tộc và ý nghĩa quốc tế sâu sắc, thể hiện tinh thần cách mạng triệt
để. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã nắm bắt đúng xu thế phát triển của thời
đại, gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới, giải
quyết đúng đắn vấn đề độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Trên con dường phát
triển của cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã không ngừng đưa ra những quyết sách
phù hợp, đáp ứng yêu cầu lịch sử, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa nước
nhà đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
2.
Tích cực xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức
và đạo đức; xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh
Những thắng lợi vĩ đại trong 93 năm qua
kể từ ngày có Đảng lãnh đạo là minh chứng sinh động nhất về năng lực lãnh đạo
đúng đắn, sáng tạo của Đảng và sức mạnh to lớn của Nhân dân ta. Đảng đã không
ngừng tự đổi mới, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trước bối cảnh thế giới
có nhiều diễn biến phức tạp, Đảng ta đã dành không ít thời gian và công sức cho
công tác xây dựng Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, được đặt ra
trong nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng. Sau thời gian triển khai thực hiện,
Công tác xây dựng Đảng đã đạt được những chuyển biến tích cực và kinh nghiệm
quan trọng. Bản lĩnh chính trị, trình độ, năng lực lãnh đạo của Đảng ngày càng
được nâng lên; Đảng luôn vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức trong bối
cảnh trong nước, khu vực, thế giới có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp,
khó lường và có những quyết sách phù hợp để chỉ đạo xử lý kịp thời, hiệu quả.
Hòa chung dòng lịch sử hào hùng của cả nước, Chi bộ Đảng
xã Nghĩa Hòa được thành lập ngày 1/10/1956; Đảng bộ xã được thành lập ngày
10/4/1972, ngày 24/01/2008 được đổi tên thành Đảng bộ thị trấn Quỹ Nhất; từ khi
có Chi bộ Đảng Cộng sản đầu tiên hoạt động, trở thành hạt nhân lãnh đạo phong
trào đấu tranh cách mạng của nhân dân trong xã, hòa vào phong trào đấu tranh
cách mạng của cả nước, đã lãnh đạo dân quân du kích, nhân dân trong xã vùng lên
tấn công đánh đuổi thực dân Pháp và đánh đổ chế độ Mỹ - Ngụy, giải phóng xã nhà
góp phần cùng cả nước bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc, chủ quyền, thông nhất
và toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của tổ quốc.
Cùng với những thành tựu to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam,
trong 93 năm qua, Đảng bộ xã Nghĩa Hòa nay là thị trấn Quỹ Nhất đã luôn thể
hiện vai trò lãnh đạo tuyệt đối và toàn diện; đồng sức, đồng lòng cùng với Nhân
dân thị trấn vượt qua những khó khăn, thách thức, hoàn thành xuất sắc mọi mục
tiêu, nhiệm vụ đề ra, từng bước trưởng thành và phát triển, góp phần xứng đáng
cùng với cả nước làm nên những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử, hoàn thành cách
mạng giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong giai đoạn cách mạng
mới, Đảng bộ thị trấn không ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí
tuệ; kiên định, vững vàng trước khó khăn, thử thách; luôn giữ mối liên hệ máu
thịt với Nhân dân, bám sát thực tiễn, đề cao tinh thần trách nhiệm, năng động
và sáng tạo, phát huy các nguồn lực, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân thực hiện
thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng.
Năm 2022, thị trấn Quỹ Nhất đánh dấu 15 năm thành lập trong
bối cảnh nền kinh tế cả nước được mở cửa trạng thái bình thường mới, dịch bệnh
Covid-19 cơ bản được kiểm soát, tạo tiền đề quan trọng để hồi phục và phát
triển kinh tế - xã hội; các hoạt động dần trở lại bình thường. Tuy nhiên, tình
hình giá cả xăng dầu và một số mặt hàng vật liệu xây dựng tăng cao ảnh hưởng
đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và người dân sản xuất nông
nghiệp của thị trấn. Nhưng với sự lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai đồng bộ, toàn
diện của Đảng bộ cùng với sự đoàn kết, đồng thuận cao của cả hệ thống chính trị
và các tầng lớp nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp đã chung sức thực hiện hiệu
quả các nhiệm vụ chính trị của địa phương; có 11/12 chỉ tiêu đạt kế hoạch Nghị
quyết đề ra. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tốc độ tăng trưởng các
ngành kinh tế tăng 10% đạt 100% kế hoạch; thu nhập bình quân đầu người 76 triệu
đồng/người/năm. Thu ngân sách đạt kế hoạch. Công tác quản lý đất đai được chỉ
đạo quyết liệt, đảm bảo vệ sinh môi trường; xây dựng kết cấu hạ tầng được triển
khai đồng bộ; đầu tư phát triển hạ tầng thị trấn ngày càng được khang trang,
sáng - xanh - sạch - đẹp. Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới
tiếp tục được quan tâm triển khai thực hiện ở mức độ cao hơn theo các tiêu chí
nâng cao, kiểu mẫu; TDP 5 đạt
TDP kiểu mẫu, tiếp tục chọn chỉ đạo TDP 3,6 xây dựng TDP kiểu mẫu. Công tác
văn hóa - thể thao, giáo dục - đào tạo, y tế, tiếp tục phát triển. Các chủ
trương, biện pháp đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, đấu tranh
phòng, chống tham nhũng, lãng phí thường xuyên thực hiện nghiêm túc. Công tác
quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, không để bị động,
bất ngờ hoặc xảy ra điểm nóng, phức tạp trên địa bàn, hoàn thành chỉ tiêu giao
quân năm 2022. Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể
chính trị - xã hội có nhiều chuyển biến tích cực, nhân dân phấn khởi, tin tưởng
vào sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII), triển khai thực hiện Kết
luận 21 (khóa XIII) về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị;
kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”
và Chuyên đề “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về
xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên gương mẫu, có đạo đức cách mạng trong sáng,
đủ năng lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ” trong toàn hệ thống chính trị. Hoạt động
của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thị trấn tiếp tục có nhiều chuyển biến
tích cực, phát huy vai trò của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Tiếp
tục đối mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể của
thị trấn theo phương châm “hướng về cơ sở", chăm lo nhu cầu, lợi ích hợp
pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và quần chúng nhân dân. Những kết quả
trên đây đã khẳng định các chủ trương phát triển thị trấn là phù hợp với thực
tiễn, hợp lòng dân, tạo động lực, niềm tin để Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân
thị trấn quyết tâm giữ gìn và phát huy, đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng và phát
triển thị trấn toàn diện, văn minh và hiện đại, từng bước xây dựng thị trấn Quỹ
Nhất trở thành đô thị văn minh năm 2023.
Kỷ niệm 93 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng
bộ và Nhân dân thị trấn Quỹ Nhất vô cùng tự hào vì đất nước có một Đảng Cộng
sản kiên cường, trung thành với Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lãnh
đạo Nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, làm nên những kỳ tích
vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đóng góp xứng đáng vào phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế, vì hòa bình và tiến bộ của nhân loại. Tự hào về Đảng quang
vinh, về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi người dân
càng thấy rõ hơn trách nhiệm của mình, nguyện đi theo Đảng, xây dựng Đảng ngày
càng trong sạch, vững mạnh, tiếp tục lãnh đạo Nhân dân ta đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, thực hiện thắng lợi
mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng một nước
Việt Nam phồn vinh, hòa bình và thịnh vượng.
BAN TUYÊN GIÁO ĐẢNG ỦY THỊ TRẤN QUỸ
NHẤT